Chương này dựa theo sách Xuất Ê-díp-tô ký 19 — 24.
Ngay sau khi cắm trại tại Si-nai xong, Môi-se được gọi lên núi gặp Đức Chúa Trời. Thời điểm lúc bấy giờ, mối quan hệ của dân Y-sơ-ra-ên với Đấng Chí Cao được nâng lên đến mức độ gần gũi đặc biệt là được thiết lập như một hội thánh và một dân tộc dưới quyền cai trị của Chúa. “Các con đã thấy điều Ta làm cho người Ai Cập, Ta đã chở các con trên cánh đại bàng, và dẫn các con đến với Ta như thế nào. Vậy bây giờ, các con hãy thật lòng vâng lời Ta và giữ giao ước Ta thì trong tất cả các dân tộc, các con sẽ là tài sản riêng của Ta; dù cả thế gian đều thuộc về Ta. Các con sẽ trở thành một vương quốc thầy tế lễ và một dân tộc thánh cho Ta”. KTS 151.1
Môi-se xuống trại và thuật lại sứ điệp thánh cho các trưởng lão Y-sơ-ra-ên. Họ trả lời rằng: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã truyền phán”. Bằng cách này, họ đã bước vào một giao ước nghiêm túc với Chúa, trịnh trọng cam kết chính mình họ chấp nhận Ngài là Đấng cai trị họ, phù hợp với cảm xúc đặc biệt được là thần dân dưới thầm quyền của Chúa. KTS 151.2
Chúa dự tính tạo ra một sự kiện để nói về luật pháp Ngài đến mức họ cảm thấy trang nghiêm đáng kinh ngạc. Mọi sự liên quan đến công tác hầu việc Chúa đều phải được suy nghĩ cách tôn kính lớn nhất. Chúa phán với Môi-se: “Hãy đến với dân chúng, biệt riêng họ ra thánh hôm nay và ngày mai, bảo họ hãy giặt y phục mình. Đến ngày thứ ba họ phải sẵn sàng vì vào ngày đó Đức Giê-hô-va sẽ giáng lâm trước mắt toàn thể dân chúng tại núi Si-nai”. Tất cả mọi người đều dành thời gian nghiêm túc chuẩn bị ra mắt Chúa. Thân thể và trang phục của họ phải thật sạch sẽ, không dơ bẩn. Họ phải hiến dâng thân thể mình bằng cách rà soát tấm lòng tránh mọi sai trái, kiêng ăn và cầu nguyện, tâm hồn họ có thể được tẩy sạch khỏi tội lỗi. KTS 151.3
Buổi sáng ngày thứ ba, đỉnh núi Si-nai được bao phủ bởi một đám mây dày đặc, đen kịt, lan nhanh ra cho đến khi toàn bộ quả núi chìm trong bóng tối huyền bí. Tiếp theo, dân chúng nghe tiếng kèn vang dội thổi lên kêu mọi người nghinh đón Chúa. Từ trong bóng tối dày đặc, tia chớp vụt sáng lòa, những tràng sấm rền vang dội từ trên cao. “Cả núi Si-nai nghi ngút khói, vì Đức Giê-hô-va ngự trong lửa mà giáng lâm tại đó… cả hòn núi đều rúng động mãnh liệt”. Toàn bộ dân Y-sơ-ra-ên đều run sợ và cúi mặt trước Chúa. Thậm chí Môi-se cũng kêu lên: “Tôi kinh hãi và run rẩy” (Hê-bơ-rơ 12:21). KTS 151.4
Sau đó, sấm sét dừng lại, tiếng kèn ngưng và mặt đất đứng yên. Không gian yên lặng thật sự bao trùm một lúc lâu, rồi Đức Chúa Trời cất tiếng phán. Giọng nói phát ra từ đám mây dày đặc nơi Ngài đang ngự trên núi, các thiên sứ vây quanh, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban luật pháp Ngài. KTS 151.5
“Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, Đấng đã đem con ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ”. Đấng Duy nhất mang họ ra khỏi Ai Cập, tạo một con đường cho họ đi qua biển, đánh bại hoàn toàn Pha-ra-ôn và quân đội của vua - chính Ngài là Đấng Duy nhất đó bây giờ đang nói về luật pháp Ngài. KTS 151.6
Chúa vinh danh người Hê-bơ-rơ bằng cách làm cho họ trở nên những người bảo vệ và gìn giữ luật pháp Ngài, nhưng họ phải cầm giữ nó như một lẽ thật thiêng liêng cho toàn thế gian. Luật pháp mười Điều răn thích hợp với mọi người, chúng được ban cho nhằm để dạy dỗ và quản lý tất cả. Mười Điều răn thật ngắn gọn, bao hàm toàn diện, có căn cứ đích xác, chứa đựng bổn phận của chúng ta đối với Chúa và trách nhiệm đối với tha nhân, tất cả đều dựa trên một nguyên tắc nền tảng căn bản vĩ đại nhất đó chính là tình yêu thương. “Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết tâm trí mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi; và yêu thương người lân cận như mình” (Lu-ca 10:27). Các nguyên tắc này trong luật pháp mười Điều răn được áp dụng vào đời sống của chúng ta. KTS 152.1
(1) “Trước mặt Ta, ngươi chớ có các thần khác”. Bất cứ điều gì chúng ta hằng ấp ủ là có khuynh hướng làm giảm tình yêu thương của chúng ta dành cho Chúa hoặc gây cản trở tấm lòng hầu việc Ngài — đó là việc tạo ra thần tượng. KTS 152.2
(2) Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia hoặc nơi đất thấp này, hoặc trong nước, dưới đất. Ngươi chớ quỳ lạy các hình tượng đó và cũng đừng hầu việc chúng nó”. KTS 152.3