Khi luật pháp công bình vĩ đại bày ra trước mắt, dân sự nhận ra rằng từ trước đến nay họ chưa bao giờ biết tội lỗi ghê tởm như thế nào đối với một Đức Chúa Trời thánh khiết và họ đáng xấu hổ ra sao trong mắt Ngài. Họ gào khóc với Môi-se: “Xin chính ông nói thẳng với chúng tôi và chúng tôi sẽ nghe; nhưng xin Đức Chúa Trời đừng phán với chúng tôi, e chúng tôi chết mất”. Người lãnh đạo nói với dân chúng: “Đừng sợ, vì Đức Chúa Trời giáng lâm để thử lòng anh em, để anh em luôn kính sợ Ngài mà không phạm tội”. KTS 154.10
Mù quáng và sa sút vì sống trong cảnh nô lệ và ngoại giáo, dân sự không sẵn sàng hiểu trọn vẹn các nguyên tắc có ảnh hưởng sâu rộng về Mười Điều Răn của Chúa. Ban thêm sự hướng dẫn, chứng minh và ứng dụng cho các nguyên tắc này, luật pháp được gọi là “sự phán xét” bởi vì các phán quyết là để xét xử chính họ. Không giống như Mười Điều Răn, họ trình bày bí mật với riêng Môi-se. KTS 154.11
Điều răn đầu tiên liên quan đến nô lệ. Một người Hê-bơ-rơ không thể bị bán làm nô lệ suốt đời. Người ấy chỉ làm nô lệ trong sáu năm, sang năm thứ bảy thì được trả tự do. Điền sản của những người làm nô lệ không phải là dân Y-sơ-ra-ên cũng được phép hưởng như vậy, nhưng cuộc sống và bản thân người đó sẽ được bảo vệ nghiêm ngặt. Kẻ cướp nô lệ sẽ bị trừng phạt; người chủ đánh nô lệ bị thương, thậm chí chỉ gãy một cái răng, cũng phải để nô lệ tự do. KTS 155.1
Người dân Y-sơ-ra-ên rất cẩn trọng không nuông chiều tính khí hung dữ giống những gì họ phải chịu đựng khi còn dưới sự cai trị của các đốc công Ai Cập. Ký ức đau thương chính họ đã cay đắng trải qua giúp cho họ có thể đặt mình vào vị trí của kẻ nô lệ để biết cách cư xử tốt bụng và thông cảm. KTS 155.2
Các quyền lợi của góa phụ và trẻ mồ côi cũng được bảo vệ đặc biệt. Chúa phán: “Nếu ức hiếp họ và họ kêu van Ta, Ta chắc chắn sẽ nghe tiếng kêu van của họ; cơn giận của Ta sẽ bừng lên, Ta sẽ dùng gươm giết các con, vợ các con sẽ góa bụa và con của các con sẽ mồ côi”. Những khách ngoại bang hiệp nhất với người Y-sơ-ra-ên cũng được bảo vệ khỏi sai trái và áp bức. “Con chớ nên bạc đãi hay áp bức người tha hương vì các con từng là kẻ tha hương trên đất nước Ai Cập”. KTS 155.3
Đòi tiền lãi người nghèo mắc nợ cũng bị cấm. Giữ áo choàng hoặc cái mền của họ làm vật thế chấp cũng phải trả lại trước khi trời tối. Các thẩm phán cũng được cảnh báo không được làm sai sự công bằng, không giúp đỡ kẻ sai trái, không nhận hối lộ. Ngăn cấm làm kẻ vu khống, khuyến khích mọi cách cư xử nhân từ thậm chí đối với cá nhân kẻ thù. KTS 155.4
Dân chúng được nhắc nhở về bổn phận gìn giữ tính thiêng liêng của ngày Sa-bát. Các lễ hội hằng năm cũng được chỉ định, khi đó mọi đàn ông trong cả nước đều tập họp lại trước mặt Chúa, họ mang theo các vật dâng hiến tạ ơn cùng các hoa lợi đầu mùa mà Chúa đã cung cấp. Mục đích của tất cả các quy tắc này đều hợp lệ, tựu trung lại vì lợi ích của dân Y-sơ-ra-ên. Chúa phán: “Các con sẽ là một dân tộc thánh cho Ta”. KTS 155.5
Các luật này được Môi-se ghi nhận và bảo quản cẩn thận như là cơ sở lập pháp của dân tộc, cùng với Mười Điều Răn, trở thành điều kiện để Chúa hoàn thành các lời hứa của Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên. KTS 155.6
Sứ điệp đã được ban ra: “Này, Ta sai một thiên sứ đi trước con để gìn giữ con trên đường đi và đưa con vào nơi Ta đã chuẩn bị. Trước mặt thiên sứ, hãy cẩn thận và vâng lời người, chớ nổi loạn chống lại người vì người sẽ chẳng tha sự phản bội của các con đâu, vì danh Ta ở trong người”. Đấng Christ trong trụ mây và trụ lửa là Đấng Lãnh đạo họ. Trong thời kỳ còn dấu hiệu hoặc “các kiểu” chỉ về Đấng Cứu Thế sẽ đến, thì cũng có một Đấng Cứu Thế hiện diện, Đấng ban điều răn qua Môi-se cho dân sự và đại diện cho họ giống như kênh thông tin ân điển duy nhất. KTS 155.7