Hai chi phái Gát và Ru-bên cùng phân nửa chi phái Ma-na-se đã được phân chia đất trước khi qua sông Giô-đanh. Những cánh đồng vùng cao nguyên và những khu rừng giàu tài nguyên của Ga-la-át và Ba-san là những thứ hấp dẫn không thể tìm thấy ở Ca-na-an. Cả hai và phân nửa chi phái nói trên ao ước định cư tại nơi đây, họ đã thề hứa sẽ góp sức cùng anh em vượt sông Giô-đanh để đánh chiếm xứ cho đến chừng nào tất cả cùng nhận phần sở hữu của mình. Khi mười chi phái tiến vào đất Ca-na-an, bốn mươi ngàn người “con cháu Ru-bên, con cháu Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se… sắm sửa ra trận, đi qua trước mặt Đức Giê-hô-va, đến trong đồng bằng Giê-ri-cô, đặng đánh giặc” (Giô-suê 4:12,13). Suốt bốn năm, họ chiến đấu dũng cảm bên cạnh các anh em mình. Họ cùng hiệp nhất với nhau trong các trận chiến, cùng chia chiến lợi phẩm. Rồi họ trở về “đem của cải rất nhiều, có lắm bầy súc vật, cùng vàng, bạc, đồng, sắt và áo xống phủ phê”, tất cả những thứ này họ đều chia sẻ cho những người ở lại trông coi gia đình và các bầy súc vật. KTS 260.3
Giô-suê nhìn họ ra đi mà lòng buồn rười rượi, có biết bao nhiêu cám dỗ khủng khiếp chực chờ khi họ sống cách xa, rồi cuộc sống sẽ đẩy đưa họ rơi vào những tập tục của dân ngoại sống định cư gần biên giới. KTS 260.4
Khi Giô-suê và các thủ lĩnh khác còn đang lo lắng thì có tin cấp báo. Bên bờ sông Giô-đanh, hai chi phái và phân nửa chi phái kia đã dựng lên một bàn thờ giống như bàn thờ dâng của lễ thiêu tại Si-lô. Tội đáng chết, luật pháp Chúa cấm thờ lạy bất cứ ai ngoài đền thánh bởi vì điều ấy sẽ dẫn dắt dân sự từ bỏ lẽ thật của mình. KTS 260.5
Họ quyết định cử ngay một phái đoàn đến để bắt các chi phái ấy giải thích tại sao. Mười bộ tộc đều chọn ra một thủ lĩnh của chi phái mình. Tổng lãnh của họ là Phi-nê-a, là người đã xung phong tự biệt riêng mình ra giải quyết trước trường hợp rắc rối tại Phê-ô. KTS 260.6
Với lời lẽ khoan dung dành cho những người anh em phạm tội, các thành viên trong phái đoàn dùng những lời sắc bén để nói chuyện. Họ nhắc cho bên kia nhớ Chúa đã phán xét dân Y-sơ-ra-ên như thế nào khi họ từng tham gia thờ cúng Ba-anh Phê-ô. Phi-nê-a nói với người Gát và người Ru-bên rằng nếu như họ không muốn sinh sống trên đất mà không có bàn thờ dâng tế lễ thì họ vẫn được các chi phái bên này sông chào đón họ trở về, rồi cùng sở hữu đất đai cũng như các đặc ân khác. KTS 260.7
Đáp lại, họ xin lỗi, giải thích rằng họ không dự tính dựng bàn thờ dâng tế lễ, nhưng chỉ đơn giản là một bằng chứng (dù bị con sông ngăn cách) rằng họ vẫn có chung đức tin với bà con của họ ở Ca-na-an. Họ lo sợ rằng con cháu họ trong tương lai có thể bị khai trừ, không được dự phần cùng con cháu Y-sơ-ra-ên. Bàn thờ này được lập theo khuôn mẫu bàn thờ Đức Chúa Trời tại Si-lô như một bằng chứng nói rằng những người dựng nó cũng thờ lạy chung Đức Chúa Trời hằng sống. KTS 260.8
Cả phái đoàn cảm thấy hài lòng khi nghe những lời trần tình đó, tất cả cùng vui mừng hiệp ý với nhau ngợi khen Chúa. KTS 261.1
Bấy giờ, người Gát và người Ru-bên khắc một chữ lên bia để chỉ rõ mục đích dựng bàn thờ. Họ nói: “nó làm chứng giữa chúng ta rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời”. Bằng cách này, họ nỗ lực ngăn chặn thế hệ tương lai hiểu nhầm và dẹp bỏ nguyên nhân có thể bị dụ dỗ. KTS 261.2