Một trăm hai mươi năm trước trận Đại Hồng Thủy, Đức Chúa Trời đã kể cho Nô-ê biết về kế hoạch của Ngài và chỉ dẫn ông làm một chiếc tàu. Ông rao giảng rằng Đức Chúa Trời sẽ cho nước đổ xuống trái đất. Những ai tin vào sứ điệp, sẵn sàng ăn năn và biến đổi đời sống mình thì sẽ được thương xót và được cứu. Mê-tu-sê-la cùng các con ông là người nghe lời rao giảng của Nô-ê đã cùng nhau đóng chiếc tàu. KTS 43.2
Đức Chúa Trời cho Nô-ê các số liệu kích thước chính xác của chiếc tàu và dạy ông cách đóng như thế nào. Sự khôn ngoan của nhân loại không thể thiết kế nên một kiến trúc chắc chắn và bền vững như vậy. Đức Chúa Trời là một kiến trúc sư, còn Nô-ê là một kỹ sư xây dựng bậc thầy. Chiếc tàu cao ba tầng và chỉ có một cửa bên hông. Ánh sáng lấy từ đỉnh mái tàu, các chuồng khác nhau bên trong đều được sắp xếp theo hướng đón ánh sáng đầy đủ. Vật liệu là gỗ cây bách hoặc cây gô-phe, những cây còn nguyên hàng trăm năm. Xây dựng một kiến trúc khổng lồ này là một quá trình chậm chạp. Bởi vì kích thước của các cây cổ thụ và trạng thái tự nhiên của gỗ đó đòi hỏi nhiều công sức hơn việc chuẩn bị gỗ xây dựng như thời nay. Mọi thứ con người có thể làm đều hoàn thành cách hoàn chỉnh, tuy nhiên chiếc tàu không thể tự mình nó đứng vững trong dông bão. Chỉ mình Đức Chúa Trời mới có thể bảo vệ con cái Ngài qua dòng nước dữ dội. KTS 43.3
“Bởi đức tin, Nô-ê được Chúa mách bảo cho về các việc chưa thấy, người thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó người định tội thế gian và trở nên kẻ kế tự của sự công bình đến từ đức tin vậy” (Hê-bơ-rơ 11:7). Trong khi Nô-ê loan báo sứ điệp, đức tin của ông đã hoàn hảo và là bằng chứng rõ ràng, là một gương mẫu đúng như Đức Chúa Trời đã nói. Ông đã đổ dồn tất cả lòng hăng hái, nhiệt tình vào việc đóng tàu. Khi ông bắt tay vào việc đóng chiếc tàu rộng lớn đó, nhiều đám đông từ khắp bốn phương đổ về để tận mắt chứng kiến chuyện lạ và nghe những lời chia sẻ sốt sắng của người rao giảng. KTS 43.4
Lúc đầu, có nhiều người tin nhận lời cảnh báo, nhưng họ không thật sự ăn năn quay trở lại với Đức Chúa Trời. Bị số đông vô tín áp đảo, cuối cùng họ cũng hùa theo bạn bè cũ từ chối sứ điệp nghiêm túc đã nghe. Một số người thấy được sai lầm của bản thân và lưu tâm lời cảnh báo, nhưng có quá nhiều người chế nhạo Nô-ê, họ hùa nhau chống lại những lời mời gọi khoan dung rồi nhanh chóng trở thành những kẻ nhạo báng bạo gan nhất. Không có ai sống lâu trong tội lỗi như những người này, họ là những người đã từng nhận lấy ánh sáng nhưng rồi từ chối lời nhắc nhở của Thánh Linh. KTS 43.5
Không hẳn tất cả mọi người thuộc thế hệ đó đều sùng bái thần tượng. Cũng có nhiều người mong cầu trở thành người thờ lạy Đức Chúa Trời. Họ nói rằng thần tượng của họ là đại diện cho Thượng Đế và thông qua các thần tượng đó con người sẽ có thể hiểu được một ý niệm rõ ràng hơn về Đấng Chí Tôn. Nhiều người lãnh đạo khước từ lời rao giảng của Nô-ê theo cách như vậy, cuối cùng họ tuyên bố rằng luật pháp thánh không còn quyền lực nữa, luật pháp trái với tính cách của Đức Chúa Trời chỉ để trừng phạt những kẻ bất tuân. Do từ bỏ ánh sáng mà họ đã từng tin vào sứ điệp của Nô-ê, suy nghĩ của họ ngày càng mù quáng, trở thành những người hoang tưởng. KTS 44.1
Thế giới bị đặt vào tình thế chống lại sự công bình của Đức Chúa Trời và Luật pháp Ngài, còn Nô-ê bị xem như một người cuồng tín. Những người đàn ông cao trọng, từng trải, được tôn kính và khôn ngoan nói rằng: “Những lời đe dọa của Đức Chúa Trời nhằm mục đích làm cho người ta kinh hãi, không bao giờ thành sự thật. Việc thế giới sẽ bị hủy diệt bởi tay Đức Chúa Trời, Đấng Sáng Tạo ra nó, rồi trừng phạt mọi thứ mà Ngài đã sáng tạo sẽ không bao giờ xảy ra. Đừng sợ, Nô-ê chỉ là một người cuồng tín hoang dại”. Họ tiếp tục bất tuân và độc ác, mặc dù vậy Đức Chúa Trời không nói gì thêm qua tôi tới Ngài. KTS 44.2
Bất chấp, Nô-ê vẫn vững vàng như một vầng đá trước bão tố. Mối liên kết với Đức Chúa Trời giúp sức ông thêm mạnh mẽ từ quyền năng vô song. Suốt một trăm hai mươi năm, lời kêu gọi nghiêm túc của ông đã thất bại, thế hệ đó bỏ ngoài tai, lời cảnh báo về các sự kiện đối với họ là chuyện không thể xảy ra vì chúng vượt xa tầm hiểu biết mà loài người có thể phán đoán. KTS 44.3
Thời kỳ đó không bao giờ có mưa, trái đất được tưới mát bằng sương mù. Các dòng sông chưa bao giờ tràn bờ, chúng chỉ trôi êm ả ra biển lớn bởi vì sự sắp đặt của Đức Chúa Trời là quy định nước không được tràn qua giới hạn của nó (xem Gióp 38:11). KTS 44.4
Thời gian trôi đi, những người mang tâm trạng lo lắng, run sợ cũng dần dần cảm thấy yên tâm. Họ lý luận rằng thiên nhiên ở bên trên bản chất tự nhiên của Đức Chúa Trời. Nếu sứ điệp của Nô-ê chính xác thì thiên nhiên sẽ quay ngược lại hướng tiến triển của nó. Họ thể hiện sự coi thường lời cảnh báo của Đức Chúa Trời bằng cách tiếp tục cư xử giống những gì họ đã từng làm trước khi nghe lời cảnh báo. Họ tiếp tục tổ chức các lễ hội, vui chơi ăn uống. Họ ăn nhậu, trồng trọt và xây dựng, lập kế hoạch cho tương lai. Họ quả quyết rằng nếu có bất kỳ lẽ thật nào trong lời Nô-ê nói, thì những người cao trọng được tôn kính, khôn ngoan từng trải, đã hiểu hết vấn đề rồi. KTS 44.5
Thời gian thử thách cho nhân loại đã gần chấm dứt. Chiếc tàu đã được đóng chính xác như Chúa đã chỉ định, chỉ còn tiến hành việc cất trữ thực phẩm cho con người và thú vật. Lúc bấy giờ, tôi tớ Đức Chúa Trời lại nghiêm túc kêu gọi mọi người. Nô-ê nài xin họ hãy tìm kiếm một nơi nương náu trong khi còn kịp lúc, nhưng họ vẫn tiếp tục phớt lờ lời nói của ông và lớn tiếng chế nhạo Nô-ê. KTS 44.6
Bất thình lình, các loài thú ở khắp mọi hướng từ núi cao, rừng thẳm lặng lẽ đổ về hướng chiếc tàu. Chim chóc các loại từ khắp mọi nơi tụ tập đầy đủ, bay vào trong lòng tàu. Muôn thú “đi vào trong chiếc tàu của Nô-ê” theo từng cặp hai con, riêng thú thanh sạch thì bảy cặp. Người ta kêu gọi các triết gia giải thích hiện tượng độc nhất vô nhị này, nhưng họ không thể giải thích được. Dòng giống bị kết tội này xua đuổi những nỗi sợ hãi đang dâng lên trong đầu họ bằng các buổi hội hè, ăn uống và dường như muốn đem bản thân họ ra đánh thức sự nổi giận của Đức Chúa Trời. KTS 45.1
Chúa phán cùng Nô-ê rằng: “Ngươi và cả nhà ngươi hãy và tàu, vì về đời này Ta thấy ngươi là công bình ở trước mặt Ta”. Sức ảnh hưởng và đời sống mẫu mực là kết quả đầy ơn phước của ông đối với gia đình, nên Đức Chúa Trời đã cứu ông và cả nhà ông. KTS 45.2