Loading...
Larger font
Smaller font
Copy
Print
Contents
Sự Tranh Đấu Khốc Liệt - Contents
  • Results
  • Related
  • Featured
No results found for: "".
  • Weighted Relevancy
  • Content Sequence
  • Relevancy
  • Earliest First
  • Latest First
    Larger font
    Smaller font
    Copy
    Print
    Contents

    Chương 10 - Sự Phục Sinh Của Đấng Christ

    Các môn đồ đã nghỉ ngơi trong ngày Sa-bát, đau buồn về sự chết của Chúa mình, trong khi Đức Chúa Jêsus—Vua vinh hiển—an nghỉ nơi mộ phần. Đêm tối đã qua đi một cách chậm chạp, và trong khi trời vẫn còn nhá nhem, các thiên sứ bay lượn trên phần mộ biết rằng đã gần đến thời điểm giải thoát Con yêu dấu của Đức Chúa Trời, Vị Chỉ Huy yêu quý của họ. Và khi họ đang chờ đợi giờ khắc khải hoàn của Ngài với cảm xúc sâu sắc nhất, thì một vị thiên sứ mạnh mẽ và uy quyền bay nhanh đến từ thiên đàng. Gương mặt người như tia chớp, và áo người trắng như tuyết. Ánh sáng người xua tan bóng tối khởi đường mình, và khiến cho những quỷ sứ đã tuyên bố một cách đắc thắng rằng thi thể của Đức Chúa Jêsus là của chúng phải kinh hãi chạy trốn khởi sự chói sáng và vinh hiển của người. Một thiên sứ trong đoàn thiên binh từng chứng kiến cảnh nhục nhã của Đức Chúa Jêsus, và nhìn thấy nơi an nghỉ thánh khiết của Ngài, đã gia nhập với vị thiên sứ từ trời, rồi họ cùng đi xuống nơi mộ phần. Đất chấn động và rung chuyển khi họ đến gần, và có một cơn động đất dữ dội. Vị thiên sứ mạnh mẽ đầy quyền lực cầm hòn đá và nhanh chóng lăn nó đi khởi cửa của mộ phần rồi ngôi trên nó.ĐTK 44.1

    Nỗi sợ hãi kinh khiếp ập lên trên nhũng tên lính canh. Sức mạnh để họ canh giữ thi thể của Đức Chúa Jêsus giờ đây ở đâu? Họ đã không nghĩ đến bổn phận của mình hoặc việc các môn đồ sẽ trộm xác Ngài đi. Họ đã kinh ngạc và khiếp đảm khi ánh sáng chói lòa của các thiên sứ chiếu ra xung quanh sáng rực hơn mặt trời. Những người lính La-mã nhìn thấy các thiên sứ và họ ngã xuống đất như những người chết. Một thiên sứ lăn hòn đá trong sự chiến thắng, và với một giọng rõ ràng mạnh mẽ người cất tiếng kêu lớn, ‘Hỡi Con của Đức Chúa Trời! Cha Ngài gọi Ngài! Hãy ra!’ Sự chết không còn cầm quyền thống trị trên Ngài nữa, Đức Chúa Jêsus đã từ kẻ chết sống lại. Một vị thiên sứ khác bước vào mộ phần, và khi Đức Chúa Jêsus sống lại trong sự chiến thắng, người đã tháo khăn quấn đầu Ngài và Đức Chúa Jêsus bước ra như một Người chiến thắng khải hoàn. Trong sự trang trọng đáng kính sợ đoàn thiên binh ngắm nhìn quang cảnh ấy. Và khi Đức Chúa Jêsus bước ra khởi mộ phần trong sự oai nghi, những vị thiên sứ sáng láng ấy phủ phục mình trên đất và thờ phượng Ngài; đoạn họ tụng ca Ngài với những bài hát chiến thắng và khải hoàn, rằng sự chết không còn cầm giữ Người bị giam cầm thiên thượng của nó nữa. Giờ đây Sa-tan đã không chiến thắng. Các sứ nó đã chạy trốn trước ánh sáng chói lòa và thấu suốt của các thiên sứ trên trời. Chúng kêu than một cách đắng cay với vua của chúng, rằng con mồi của chúng đã bị lấy đi một cách bạo lực, và rằng Đấng mà chúng vô cùng ganh ghét đã từ kẻ chết sống lại.ĐTK 44.2

    Sa-tan và các sứ nó đã vui mừng chỉ trong chốc lát rằng quyền lực của chúng trên con người sa ngã đã khiến cho Chúa của sự sống phải nằm nơi mộ phần; nhưng sự vui mừng quỷ quái của chúng thật ngắn ngủi làm sao. Bởi khi Đức Chúa Jêsus bước ra khởi nơi giam giữ Ngài như một người chiến thắng oai nghi thì Sa-tan biết rằng sau một thời gian nó phải chết, và nước của nó sẽ được giao cho Đấng có quyền trên nó. Nó than khóc và giận dữ bởi mặc dầu nó đã sử dụng tất cả những nỗ lực và quyền lực của mình, Đức Chúa Jêsus vẫn không bị chinh phục, nhưng Ngài đã mở ra một con đường cứu rỗi cho con người, và bất kỳ ai muốn cũng có thể bước đi trong con đường ấy và được cứu.ĐTK 44.3

    Sa-tan có vẻ đau buồn và bày tở sự bôi rối chút đỉnh. Nó đã mở một hội nghị với các sứ nó để xem chúng nên lao vào làm gì tiếp theo để hành động chống lại sự cai trị của Đức Chúa Trời. Sa-tan nói rằng, ‘Các ngươi phải mau chóng đến cùng những thầy tế lễ cả và các trưởng lão. Chúng ta đã thành công trong việc lừa dối chúng và làm mù mắt chúng cùng làm cho chúng cứng lòng nghịch cùng Đức Chúa Jêsus. Chúng ta đã khiến chúng tin rằng Ngài là một kẻ lừa đảo. Toán lính gác La-mã kia sẽ mang ra cái tin đáng ghét rằng Đấng Christ đã sống lại. Chúng ta đã dẫn đưa những thầy tế lễ đến việc ganh ghét Đức Chúa Jêsus và giết hại Ngài. Giờ đây hãy đưa điều đó ra ánh sáng trước chúng, rằng vì chúng là những kẻ sát hại Ngài, nếu điều ấy trở nên tở tường rằng Đức Chúa Jêsus đã sống lại, thì chúng sẽ bị dân sự ném đá chết bởi chúng đã giết một người vô tội.’ĐTK 45.1

    Khi đoàn thiên sứ quay trở về thiên đàng và ánh sáng cùng sự vinh hiển tan mất đi, tôi thấy những người lính La-mã trỗi dậy để xem liệu có an toàn để họ nhìn ra xung quanh không. Họ đầy kinh ngạc khi thấy tảng đá lớn đã được lăn khởi cửa mộ phần, và Đức Chúa Jêsus đã sống lại. Họ vội vàng đến cùng những thầy tế lễ cả và các trưởng lão với câu chuyện lạ lùng mà họ đã chứng kiến; và khi những kẻ sát nhân ấy nghe điều thuật lại đầy diệu kì đó thì mọi gương mặt đều tái đi. Sự kinh hoàng chộp lấy chúng bởi những gì chúng đã làm. Đoạn chúng nhận ra rằng nếu như sự tường thuật đó là chính xác, thì chúng chết mất. Chúng lấy làm sửng sốt ít lâu, và nhìn nhau trong yên lặng, không biết nên làm gì hay nói gì. Chúng bị đặt vào một hoàn cảnh mà nếu tin thì tự kết tội mình. Chúng đi riêng ra với nhau để bàn luận xem nên làm gì. Chúng đã quyết định rằng nếu sự phục sinh của Đức Chúa Jêsus được lan truyền, và lời tường thuật về sự vinh hiển lạ lùng mà đã khiến cho những người lính ngã xuống như chết ấy đến với dân sự, thì dân sự chắc chắn sẽ tức giận và sẽ giết chúng. Chúng quyết định mua chuộc những người lính để họ giữ chuyện ấy bí mật. Chúng cho họ rất nhiều tiền mà dặn rằng, ‘Các ngươi hãy nói rằng: môn đồ nó đã đến lúc ban đêm, khi chúng tôi đương ngủ, mà lấy trộm nó đi.’ Và khi những người lính hởi rằng họ sẽ bị xử như thế nào về việc họ đã ngủ trong khi đang làm nhiệm vụ, những thầy tế lễ và các trưởng lão nói rằng chúng sẽ thuyết phục quan tổng đốc và cứu họ. Vì tiền bạc mà những người lính La-mã đã bán danh dự của họ và đồng ý nghe theo lời xúi giục của những thầy tế lễ và các trưởng lão.ĐTK 45.2

    Khi Đức Chúa Jêsus bị treo trên thập tự giá và kêu lên rằng, ‘Mọi việc đã được trọn,‘ thì đá lớn bể ra, đất rúng động, và một vài mồ mả mở ra; bởi khi Đức Chúa Jêsus từ kẻ chết sống lại, và chiến thắng sự chết cùng mộ phần; khi Ngài bước ra khởi nơi giam giữ mình như một người chiến thắng khải hoàn; trong khi mặt đất quay cuồng rúng động, và sự vinh hiển tuyệt vời của thiên đàng hợp lại quanh vị trí thánh khiết ấy, thì vâng theo tiếng gọi của Ngài nhiều người công bình đã chết bước ra [khởi mồ mả] để chứng kiến Ngài sống lại. Những thánh đồ phục sinh đầy ơn ấy đã bước ra một cách vinh hiển. Họ là một số ít người được chọn và là những người thánh đã sống trong mọi thời đại từ buổi sáng thế cho đến cả những ngày của Đấng Christ. Và khi những thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si đang tìm cách để che đậy sự phục sinh của Đấng Christ thì Đức Chúa Trời đã chọn lựa để đem một nhóm người ra khởi mộ phần của họ để làm chứng rằng Đức Chúa Jêsus đã sống lại, và rao truyền sự vinh hiển Ngài.ĐTK 45.3

    Những người được phục sinh thì khác nhau về tầm vóc và hình dáng. Tôi được cho biết rằng những cư dân trên đất đã bị thoái hóa, đánh mất đi sức lực và vẻ đẹp của họ. Sa-tan có quyền lực của bệnh tật cùng sự chết, và qua mỗi thời đại thì sự rủa sả hiển hiện nhiều hơn, và quyền lực của Sa-tan được nhìn thấy một cách rõ ràng hơn. Một vài người trong số những người được sống lại có hình dáng và diện mạo cao quí hơn những người khác. Tôi được cho biết rằng những ai sống trong thời của Nô-ê và Áp-ra-ham thì có hình dáng, vẻ đẹp và sức lực giống các thiên sứ hơn. Nhưng mỗi thế hệ đã dần trở nên yếu hơn, lệ thuộc nhiều hơn vào bệnh tật, và đời sống của họ thì ngắn ngủi hơn. Sa-tan đã học biết cách làm thế nào để quấy rối loài người và làm nhân loại yếu đi.ĐTK 46.1

    Những thánh đồ bước ra sau sự phục sinh của Đức Chúa Jêsus đã ra mắt nhiều người, nói với họ rằng sự hy sinh cho loài người đã hoàn tất, rằng Đức Chúa Jêsus—mà người Giu-đa đã đóng đinh—đã từ kẻ chết sống lại, và thêm rằng, ‘Chúng tôi đã được sống lại với Ngài.’ Họ đã mang lời chứng rằng chính bởi quyền năng cả thể của Ngài mà họ đã được gọi khởi mồ mả của mình. Mặc cho những lời báo cáo giả dối được truyền bá, sự kiện ấy cũng không thể bị che giấu bởi Sa-tan, bởi các sứ nó hay bởi những thầy tế lễ cả; vì nhóm thánh nhân này, được đem ra khởi mồ mả của họ, đã rao truyền tin tức lạ lùng và vui mừng ấy; cũng như chính Đức Chúa Jêsus đã tở Ngài ra cho những môn đồ đau buồn và sầu não, xua tan đi những nỗi lo sợ của họ, khiến họ vui vẻ và mừng rỡ.ĐTK 46.2

    Khi tin tức được lan truyền từ thành này sang thành khác và từ làng mạc nọ đến làng mạc kia, thì đến phiên những người Giu-đa lo sợ về mạng sống của họ, và họ chế giếu sự ganh ghét mà họ ấp ủ nghịch cùng các môn đồ. Hy vọng duy nhất của họ là lan truyền lời tường thuật giả dối của mình. Và những ai mong muốn rằng lời giả dối này là thật, đã tin nó. Phi-lát run rẩy. Ông tin nơi lời chứng mạnh mẽ đã được ban ra, rằng Đức Chúa Jêsus đã sống lại từ sự chết, rằng nhiều người khác đã được Ngài đem lên với Ngài, và rồi sự bình an đã vĩnh viễn rời khởi ông. Vì danh vọng của thế gian, vì sợ sẽ đánh mất quyền thế cùng sự sống của mình mà ông đã phó Đức Chúa Jêsus để bị giết. Giờ đây ông hoàn toàn nhận thức được rằng ông đã có tội không chỉ về huyết của một người vô tội bình thường, mà chính là huyết của Con Đức Chúa Trời. Đời sống của Phi-lát thật khổ sở làm sao; và kết cục của nó cũng thật bi ai làm sao. Sự tuyệt vọng và khổ não đã làm tiêu tan mọi cảm xúc hy vọng và vui mừng. Ông từ chối sự an ủi và đã chết một cái chết khổ sở nhất.ĐTK 46.3

    Lòng của vua Hê-rốt càng trở nên chai cứng, và khi ông nghe rằng Đức Chúa Jêsus đã sống lại, ông không bối rối lắm. Ông đã lấy mạng sông của Gia-cơ; và khi ông ta thấy rằng điều này khiến dân Giu-đa hài lòng, ông cũng bắt luôn Phi-e-rơ, dự định sẽ hành quyết người. Nhưng Đức Chúa Trời có một công việc cho Phi-e-rơ thực hiện, và Ngài đã sai thiên sứ Ngài giải thoát người. Hê-rốt đã bị sự đoán xét trừng phạt. Đức Chúa Trời đã trừng trị ông trước mặt một đám đông khi ông tán tụng bản thân trước mặt họ, và ông đã chết một cái chết kinh khủng.ĐTK 47.1

    Vào buổi sáng sớm trước lúc bình minh ló dạng, những người đàn bà thánh thiện đã đi đến phần mộ, đem theo dầu thơm để xức xác của Đức Chúa Jêsus, khi mà lạ chưa kìa! Họ thấy tảng đá nặng đã được lăn khởi cửa mộ phần, và xác của Đức Chúa Jêsus không có ở đó. Và kìa, có hai vị thiên sứ trong bộ trang phục sáng láng đứng bên cạnh họ; mặt các thiên sứ rực rỡ và chiếu sáng. Các thiên sứ hiểu được mục đích của những người đàn bà thánh thiện đó, nên đã lập tức nói với họ rằng họ đang tìm kiếm Đức Chúa Jêsus nhưng Ngài không có ở đó, Ngài đã sống lại và họ có thể nhìn xem nơi Ngài đã nằm. Các thiên sứ truyền lệnh cho họ hãy đi báo cho các môn đồ rằng Ngài sẽ đi trước họ đến Ga-li-lê. Nhưng những người đàn bà đã quá sợ hãi và sửng sốt. Họ vội vã chạy đến cùng các môn đồ đương than khóc và không thể an ủi được bởi vì Chúa của họ đã bị đóng đinh; những người đàn bà vội vàng kể lại cho các môn đồ những điều mà họ đã thấy và nghe. Các môn đồ không thể tin rằng Ngài đã sống lại, họ cùng với những người đàn bà đã báo tin vội vàng chạy đến nơi mộ phần, và thấy rằng Đức Chúa Jêsus thật không có ở đó. Có bộ quần áo bằng vải lanh của Ngài còn ở đó, nhưng họ không thể tin vào tin tức tốt lành rằng Đức Chúa Jêsus đã sống lại từ sự chết. Họ đã trở về nhà lấy làm lạ về những điều mà họ đã thấy, cũng như về lời tường thuật mà những người đàn bà đã đem đến cho họ. Nhưng Ma-ri thì nấn ná xung quanh mộ phần, suy nghĩ về những gì bà đã thấy, và lo lắng với tư tưởng rằng bà có thể đã bị lừa. Bà cảm thấy rằng những thử thách mới đang chờ đợi bà. Sự đau buồn của bà quay trở lại, và bà đã vỡ òa trong sự khóc lóc cay đắng. Bà cúi xuống nhìn lại một lần nữa vào trong nơi mộ phần, và thấy hai thiên sứ mặc đồ trắng, sắc mặt họ rực rỡ và chiếu sáng. Một vị ngồi đằng đầu, một vị đằng chân nơi Đức Chúa Jêsus đã được an nghỉ. Họ nói với bà một cách dịu dàng, và hởi bà tại sao bà khóc. Bà trả lời, ‘Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu.’ĐTK 47.2

    Và khi bà quay đi khởi mộ phần, bà thấy Đức Chúa Jêsus đứng bên cạnh mình; nhưng bà không nhận biết Ngài. Đức Chúa Jêsus nói chuyện một cách dịu dàng với bà Ma-li, và hởi lý do tại sao bà đau buồn cũng như hởi bà đang tìm kiếm ai. Bà tưởng rằng Ngài là người làm vườn, và van xin Ngài rằng, nếu Ngài đã đem xác Chúa của bà đi thì hãy nói cho bà biết là đã để xác ở đâu và bà sẽ đi lấy xác. Đức Chúa Jêsus nói với bà bằng chính giọng nói ở thiên đàng của Ngài mà rằng, ‘Hỡi Ma-ri!’ Bà đã quen thuộc với âm điệu của giọng nói yêu dấu ấy nên nhanh chóng trả lời, ‘Thầy!’ và với sự hân hoan vui mừng định ôm chầm lấy Ngài; nhưng Đức Chúa Jêsus lùi lại và nói rằng, ‘Chớ rờ đến Ta; vì Ta chưa lên cùng Cha! Nhưng hãy đi đến cùng anh em Ta, nói rằng Ta lên cùng Cha Ta và Cha các ngươi, cùng Đức Chúa Trời Ta và Đức Chúa Trời các ngươi.’ Bà mừng rỡ vội vàng chạy đến cùng các môn đồ với tin tức tốt lành. Đức Chúa Jêsus nhanh chóng thăng thiên về với Cha Ngài để nghe từ miệng Cha rằng sự hy sinh đã được chấp nhận và rằng Ngài đã thực hiện mọi việc tốt đẹp và sẽ tiếp nhận mọi quyền trên trời dưới đất từ Cha Ngài.ĐTK 48.1

    Các thiên sứ như một đám mây vây quanh Con Đức Chúa Trời, và ra lệnh cho những cửa đời đời hãy nâng lên, để Vua vinh hiển có thế vào. Tôi thấy rằng trong khi Đức Chúa Jêsus ở với đoàn thiên binh sáng láng ấy, ở trong sự hiện diện của Cha Ngài, và sự vinh hiển tuyệt diệu của Đức Chúa Trời bao bọc Ngài, Ngài đã không quên những môn đồ đáng thương của mình ở trên đất; nhưng Ngài muốn nhận lấy quyền phép từ Cha Ngài, để Ngài có thể trở về với họ, và trong khi ở với họ Ngài sẽ truyền lại quyền phép cho họ. Ngay chính ngày hôm ấy Ngài đã quay trở lại và tở mình cho các môn đồ. Đoạn Ngài cho phép họ rờ Ngài, vì Ngài đã lên cùng Cha Ngài và đã nhận được quyền phép.ĐTK 48.2

    Nhưng lúc này Thô-ma không có mặt. Ông không khiêm nhường đón nhận lời tường thuật của các môn đồ mà quả quyết một cách mạnh mẽ và chắc chắn rằng ông sẽ không tin, trừ khi ông đặt những ngón tay mình vào những vết đinh và đặt bàn tay ông vào hông Ngài, nơi ngọn giáo tàn ác đã đâm xuyên. Trong chuyện này ông đã bày tở một sự thiếu tin tưởng nơi các anh em mình. Và nếu tất cả cũng đòi hởi một bằng chứng như vậy, thì sẽ chỉ có một số ít đón nhận Đức Chúa Jêsus và tin nơi sự sống lại của Ngài. Nhưng ý muốn của Đức Chúa Trời ấy chính là lời tường thuật của các môn đồ sẽ đi từ nơi này đến nơi khác, và nhiều người sẽ đón nhận nó từ môi miệng của những người đã thấy và đã nghe. Đức Chúa Trời không hài lòng lắm với những sự không tin kính như vậy. Và khi Đức Chúa Jêsus gặp lại các môn đồ Ngài một lần nữa, thì Thô-ma có ở với họ. Ngay giây phút ông nhìn thấy Đức Chúa Jêsus ông liền tin. Nhưng ông đã tuyên bố rằng ông sẽ không thỏa mãn nếu không có thêm bằng chứng về việc rờ đến Ngài bên cạnh sự nhìn thấy, và Đức Chúa Jêsus đã ban cho ông bằng chứng mà ông mong muốn. Thô-ma đã thốt lên rằng, ‘Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi.’ Nhưng Đức Chúa Jêsus đã quở trách Thô-ma về sự không tin của ông. Ngài nói với ông rằng, Thô-ma ‘vì ngươi đã thấy Ta, nên ngươi tin. Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!’ĐTK 48.3

    Do đó tôi thấy rằng những ai không có kinh nghiệm trong những sứ điệp của vị thiên sứ thư nhất và thứ hai thì phải nhận lấy chúng từ những người đã có kinh nghiệm và đi theo suốt các sứ điệp. Khi Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh, tôi thấy rằng những sứ điệp này cũng đã bị đóng đinh. Và như các môn đồ tuyên bố rằng ở dưới trời không có sự cứu rỗi trong danh nào khác để ban cho loài người; thì cũng vậy các tôi tớ của Đức Chúa Trời nên trung tín và mạnh dạn tuyên bố rằng những ai đi theo chỉ một phần của những lẽ thật liên quan đến sứ điệp thứ ba, thì cũng phải vui mừng làm theo những sứ điệp thứ nhất thứ nhì và thứ ba như Đức Chúa Trời đã ban cho họ hoặc là sẽ không dính dáng gì đến chúng cả.ĐTK 49.1

    Tôi được chỉ cho rằng trong khi những người phụ nữ thánh mang lời tường thuật về việc Đức Chúa Jêsus đã sống lại, thì những người lính La-mã lại đang lan truyền lời nói dối mà những thầy tế lễ cả và các trưởng lão đã đạt vào miệng họ rằng các môn đồ đã đến vào ban đêm trong khi họ ngủ và đã trộm xác của Đức Chúa Jêsus. Sa-tan đã đạt lời dối trá này vào lòng và vào miệng của những thầy tế lễ cả, và mọi người lại sẵn sàng đón nhận lời của họ. Nhưng Đức Chúa Trời đã làm rõ ràng vấn đề này, Ngài đặt sự kiện quan trọng này mà sự cứu rỗi gắn liền với nó vượt qua mọi sự nghi ngờ, và những thầy tế lễ cả cùng các trưởng lão không thể nào che đậy được. Những nhân chứng đã được dấy lên từ sự chết để làm chứng về sự phục sinh của Đấng Christ.ĐTK 49.2

    Đức Chúa Jêsus ở lại với các môn đồ bốn mươi ngày khiến cho họ hân hoan và vui mừng, Ngài mở ra cho họ những sự thật đầy đủ hơn về nước của Đức Chúa Trời. Ngài truyền lệnh cho họ hãy mang lời chứng về những điều mà họ đã thấy và nghe, về sự đau khổ sự chết và sự sống lại của Ngài; rằng Ngài đã hy sinh cho tội lỗi, rằng tất cả mọi người sẽ đến với Ngài và tìm thấy sự sống. Với sự dịu dàng chân thành, Ngài đã nói với họ rằng họ sẽ bị bắt bớ và đau khô; nhưng họ sẽ tìm thấy sự trợ giúp nhờ vào kinh nghiệm từng trải của mình, và nhớ lại những lời mà Ngài đã phán với họ. Ngài nói với họ rằng Ngài đã chinh phục những sự cám dỗ của ma quỷ và giữ được chiến thắng qua những sự thử thách và đau đớn, rằng Sa-tan không còn có quyền lực trên Ngài, nhưng nó sẽ đem những sự cám dỗ cùng quyền lực của nó lên trên họ một cách trực tiếp hơn, và cũng trên tất cả những ai sẽ tin nơi danh Ngài. Ngài nói với họ rằng họ cũng có thể chiến thắng như Ngài đã chiến thắng. Đức Chúa Jêsus phú cho các môn đồ của Ngài quyền năng để làm nhiều phép lạ, và Ngài nói với họ rằng mặc dầu những kẻ gian ác sẽ có quyền lực trên thân thể của họ, nhưng ở những thời điểm nhất định Ngài sẽ sai các thiên sứ Ngài giải cứu họ; rằng sự sống của họ sẽ không thể bị cất đi cho đến khi sứ mệnh của họ được hoàn thành. Và khi lời chứng của họ được hoàn tất, đời sống của họ có thể bị đòi hởi phải đóng dấu ấn trên những lời chứng mà họ đã mang. Những người nóng lòng đi theo Ngài vui mừng lắng nghe những sự dạy dỗ của Ngài. Họ hăm hở ăn nuốt mọi lời được thốt ra từ môi miệng của Ngài. Lúc ấy họ biết chắc chắn rằng Ngài là Đấng cứu chuộc của thế gian. Mỗi một lời lắng đọng sâu vào lòng họ, và họ đau buồn bởi họ phải rời xa vị Thầy đầy ơn phước từ trời của mình; rằng ít lâu nữa họ sẽ không còn được nghe những lời an ủi nhân từ từ môi miệng Ngài. Nhưng lòng họ lại ấm áp với tình yêu và sự vui mừng quá đỗi, khi Đức Chúa Jêsus nói với họ rằng Ngài sẽ đi và sửa soạn những nơi ở cho họ, và Ngài sẽ trở lại để nhận lấy họ, để họ có thể ở với Ngài mãi mãi. Ngài nói với họ rằng Ngài sẽ gởi đến cho họ Đấng An Ủi—Đức Thánh Linh—để hướng dẫn, ban phước và dắt đưa họ vào mọi lẽ thật, đoạn Ngài đưa tay mình lên và chúc phước cho họ.ĐTK 49.3

    1. Xem Khải-huyền 14: 6-8. Được giải thích trong chương 23 và 24 của quyển sách này.
    2. Xem Khải-huyền 14: 9-12. Được giải thích trong chương 28 của quyển sách này.
    3. Xem Ma-thi-ơ 27: 52,53; 28; Mác 16:1-18; Lu-ca 24:1-50; Giăng 20; Công-vụ-các-sứ-đồ 12
    ĐTK 50.1

    Larger font
    Smaller font
    Copy
    Print
    Contents